1. Giao thông:
Kon Tum nằm vùng trong vùng lõi Khu vực Tam giác phát triển duy nhất hội tụ và giao thoa đồng thời 4 quốc lộ: 40, 14, 14C, 24.
Cửa khẩu quốc tế Bờ Y nối các tỉnh Tây Nguyên, duyên hải Miền Trung, Đông Nam bộ của Việt Nam với các tỉnh Đông Bắc Thái Lan, Đông Bắc Camphuchia và Nam Lào.
Tỉnh Kon Tum có Đường Hồ Chí Minh đi qua và có các đường Quốc lộ đi qua gồm: QL 40, 40B, QL 24, QL 14C và các tỉnh lộ 671, 672, 673, 674, 675, 676, 677, 678; đường Ngọc Hoàng – Măng Bút – Tu Mơ Rông – Ngọc Linh, đường Ya Tăng – Se San, các đường liên xã…
Là một địa điểm trung chuyển bằng đường bộ nối từ Mianma - Đông Bắc Thái Lan - Nam Lào với khu vực Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung và Đông Nam Bộ.
2. Thủy lợi:
Tính đến cuối năm 2019, toàn tỉnh có 543 công trình thủy lợi, tăng 51 công trình so với năm 2015 (tăng 10,37%), trong đó có: 20 đập, hồ chứa lớn; 29 đập, hồ chứa vừa; 487 đập, hồ chứa nhỏ; 07 trạm bơm loại nhỏ (nằm trên địa bàn thành phố Kon Tum). Diện tích tưới thực tế năm 2019 là 20.040,17 ha (bằng 116% so với năng lực thiết kế năm 2019), tăng 4.009,75 ha so với năm 2015 (tăng 25,01%). Kinh phí để cho công tác đầu tư xây dựng mới và nâng cấp sửa chữa công trình thủy lợi tương đối cao, khoảng 894 tỷ đồng đầu tư trong giai đoạn 2015 - 2019([1]).
Hiện tại trên địa bàn tỉnh Kon Tum chưa có doanh nghiệp đủ điều kiện để thực hiện khai thác công trình thủy lợi theo quy định của Luật thủy lợi. Các công trình thủy lợi do Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn quản lý theo phân cấp hiện tại được Ủy ban nhân dân tỉnh giao cho Ban Quản lý - Khai thác các công trình thủy lợi khai thác và bảo vệ (178 công trình). Đối với các công trình thủy lợi phân cấp cho Ủy ban nhân dân các huyện quản lý (365 công trình([2])), hầu hết đều là công trình thủy lợi nhỏ; Ủy ban nhân dân các huyện giao cho phòng chuyên môn quản lý và giao trực tiếp cho Ủy ban nhân dân các xã thực hiện khai thác, bảo vệ. Chỉ có Ủy ban nhân dân huyện Đăk Tô thực hiện đặt hàng khai thác cho doanh nghiệp.
Hầu hết các đập hồ chứa thủy lợi trên địa bàn tỉnh đều đáp ứng được năng lực chống lũ theo quy chuẩn hiện hành; qua các năm đảm bảo an toàn trong mùa mưa lũ. Tuy nhiên, một số công trình thủy lợi được xây dựng từ năm 1980 - 2000, qua thời gian dài sử dụng đã xuống cấp không còn đảm bảo nhiệm vụ tưới. Ngoài ra, hầu hết các công trình thủy lợi do Ủy ban nhân dân các huyện quản lý đều được xây dựng đã lâu, tổ chức vận hành ở các thôn, xã không có chuyên môn nghiệp vụ và kinh phí để duy tu, bảo dưỡng công trình còn hạn hẹp nên các công trình xuống cấp, hư hỏng nhiều.
Thực hiện Chương trình bảo đảm an toàn hồ chứa: Trong những năm qua tỉnh Kon Tum đã đầu tư xây dựng, nâng cấp sửa chữa 20 hồ chứa nước với kinh phí thực hiện hơn 460 tỷ đồng, từ các nguồn vốn an toàn hồ chứa, ngân sách do Trung ương cấp, đối ứng địa phương, JBIC...(chủ yếu các công trình do Ban Quản lý Khai thác các công trình thủy lợi Kon Tum quản lý). Hiện nay đang tiếp tục triển khai kế hoạch giai đoạn 2016 - 2020 các dự án tu sửa, nâng cấp các hồ đập bị xuống cấp, có nguy cơ mất an toàn, nhằm đảm bảo an toàn công trình trong mùa mưa lũ và phục vụ cho sản xuất bằng nguồn vốn WB8 (đang triển khai thực hiện 14 công trình với kinh phí hơn 200 tỷ đồng).
([1]) Năm 2015: 54 công trình; tổng kinh phí 134,2 tỷ đồng; Năm 2016: 74 công trình; tổng kinh phí 90,672 tỷ đồng; Năm 2017: 61 công trình; tổng kinh phí 87,774 tỷ đồng; Năm 2018: 59 công trình; tổng kinh phí 162,853 tỷ đồng; Năm 2019: 40 công trình; tổng kinh phí 418,593 tỷ đồng.
([2]) Gồm: thành phố Kon Tum 13 công trình; huyện Đăk Tô 37 công trình; huyện Ngọc Hồi 23 công trình; huyện Đăk Glei 90 công trình; huyện Đăk Hà 33 công trình; huyện Sa Thầy 26 công trình; huyện Tu Mơ Rông 69 công trình; huyện Kon Rẫy 22 công trình; huyện Kon Plông 51 công trình; huyện Ia H’Drai 01 công trình.
3. Cấp điện:
Tài nguyên nước và thủy năng dồi dào, trong đó tiềm năng thủy điện trên sông Sê San, đứng thứ 3 trong hệ thống sông của Việt Nam với tổng công suất 1.740 MW, tổng sản lượng điện trung bình 10.450 tỷ KWh/năm và các nhà máy thủy điện vừa và nhỏ cung cấp một lương lớn điện năng cho tỉnh và các tỉnh lân cận.
Hiện tại trên địa bàn tỉnh tỉnh Kon Tum đã đầu tư 1.749 km đường dây trung áp, 1.278 km đường dây hạ áp, 1.315 trạm biến áp với tổng dung lượng 241.424 KVA.Trên địa bàn tỉnh hiện có 83/86 xã, có điện quốc gia, đạt tỷ lệ 97,06%, số thôn có lưới điện quốc gia đạt khoảng 97,06%.
+ Hệ thống truyền tải, phân phối điện: Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 01 Trạm biến áp 220kV (2x125MVA) và 06 Trạm biến áp 110kV (tổng công suất 249MVA); 1.995,8 km đường dây trung thế; 1.611,1 km đường dây hạ thế; 1.682 trạm/243.500kVA trạm biến áp phụ tải. Tính đến hết năm 2019, trên địa bàn tỉnh có 99,03% hộ dân được sử dụng điện; 100% số thôn, xã có điện. Dự kiến hết năm 2020, sẽ có 99,3% hộ dân toàn tỉnh được sử dụng điện.
+ Về cấp điện cho các thôn làng chưa có điện: Dự án cấp điện các thôn làng chưa có điện từ lưới điện Quốc gia tỉnh Kon Tum giai đoạn 2014 - 2020 được khởi công vào năm 2015 đến nay đã thực hiện cấp điện đến 10 thôn, làng trắng điện thuộc khu vực gần biên giới, vùng sâu, vùng xa cần tăng cường về an ninh, quốc phòng([1]). Khối lượng lưới điện đã hoàn thành: Đường dây trung áp (35kV và 22kV) 42,04 km; đường dây hạ áp 12,85 km, xây dựng mới 10 trạm biến áp với công suất 1.345kVA; cấp điện đến 797 hộ dân chưa có điện. Dự kiến cuối năm 2020, Tiểu dự án 1 và Tiểu dự án 2 hoàn thành sẽ góp phần hoàn thiện lưới điện nông thôn trên địa bàn tỉnh, cơ bản bảo đảm cung cấp điện ổn định, an toàn cho sản xuất và sinh hoạt của người dân([2]).
([1]) Huyện Ia H’Drai: thôn 1, thôn 2, thôn Ia Muung, xã Ia Dom; thôn 3, thôn 4, xã Ia Đal; thôn 9 xã Ia Tơi. Huyện Đăk Glei: thôn Mô Bo, thôn Đăk Bối, xã Mường Hoong. Huyện Tu Mơ Rông: thôn Ngọc La, xã Măng Ri, huyện Tu Mơ Rông; thôn Măng Rương 2, xã Ngọc Lây.
([2]) Các hạng mục công trình sau khi hoàn thành được bàn giao ngay cho Công ty Điện lực Kon Tum tiếp nhận quản lý, vận hành để bán lẻ điện đến hộ dân, góp phần không nhỏ trong Chương trình xây nông thôn mới của các địa phương, và cấp điện tốt hơn cho sinh hoạt, sản xuất kinh doanh của nhân dân và phát triển kinh tế xã hội của các địa phương.
4. Cấp nước, thoát nước:
Tại các đô thị trên địa bàn tỉnh: tính đến cuối năm 2019, tổng công suất thiết kế của các nhà máy nước đạt 34.630 m3/ngày (trong đó: Đô thị loại III đạt 17.000 m3/ngày; Đô thị loại IV đạt 5.000 m3/ngày; Đô thị loại V đạt 12.630 m3/ngày), tổng công suất khai thác của nhà máy nước là 17.158 m3/ngày, đạt 49,55%; tỷ lệ dân số đô thị được cung cấp nước sạch tập trung qua hệ thống cấp nước tập trung đạt trung bình 28,9% (trong đó: Đô thị loại III đạt 47%; Đô thị loại IV đạt 32,15%; Đô thị loại V đạt 20%); tổng lượng nước thực tế cấp cho địa bàn đo qua đồng hồ tổng bình quân 11.600 m3/ngày, trong đó tổng lượng nước đã thu tiền từ người sử dụng bình quân 10.708 m3/ngày, tỷ lệ thất thoát, thất thu nước sạch khoảng 7,69%.
Tại hạ tầng nông thôn: tính đến cuối năm 2019, tỷ lệ hộ dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 88,7% (trong đó tỷ lệ % hộ sử dụng nước sạch đạt chuẩn Quốc gia đạt 33,8%), có 360 công trình cấp nước tập trung; tỷ lệ hộ dân nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh đạt 66,5%. Ngoài ra, tại các trường học mầm non, phổ thông và trạm y tế xã ở nông thôn cũng được các cấp chính quyền địa phương quan tâm, đầu tư cơ sở vật chất, đáp ứng nhu cầu để phục vụ học sinh tại các vùng nông thôn, đến cuối năm 2019, trên địa bàn tỉnh ở khu vực nông thôn tỷ lệ trường học có nước và nhà tiêu hợp vệ sinh đạt 99,3%; tỷ lệ trạm y tế xã có nước và nhà tiêu hợp vệ sinh đạt 95,3%. Tuy nhiên, hiện nay chất lượng nước sinh hoạt chưa được kiểm soát chặt chẽ; tỷ lệ hộ gia đình nông thôn được sử dụng nước sạch vẫn còn thấp; công tác quản lý, vận hành các công trình sau đầu tư còn chưa hiệu quả;...
5. Thông tin, truyền thông
* Bưu chính
Mạng phục vụ Bưu chính tỉnh Kon Tum đã phát triển và phủ sóng rộng khắp trên toàn địa bàn tỉnh, 100% số xã, phường, thị trấn có điểm phục vụ. Theo số liệu thống kê, hiện nay có 05 doanh nghiệp tham gia cung cấp các dịch vụ bưu chính và chuyển phát trên địa bàn tỉnh; có 114 điểm phục vụ bưu chính bao gồm 26 bưu cục (Bưu điện tỉnh: 17 bưu cục, Bưu chính Viettel: 9 bưu cục), 71 điểm Bưu điện-Văn hóa xã và 18 thùng thư công cộng đảm bảo dịch vụ công ích cung cấp đến tất cả các điểm trên địa bàn tỉnh, đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ bưu chính của người dân, thực hiện tốt nhiệm vụ thông tin của Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp, góp phần nâng cao hạ tầng cơ sở cũng như phong trào xây dựng nông thôn mới.
Hệ thống các điểm giao dịch phục vụ tất cả các ngày trong năm trừ các ngày lễ, tết. Toàn tỉnh có 87/102 xã, phường, thị trấn có báo đến trong ngày (đạt 85,3%). Mạng lưới điểm phục vụ được bố trí trải khắp các xã từ khu đông dân cư cho đến khu vực dân cư thưa thớt, với bán kính phục vụ 5,42 km/điểm phục vụ và dân số phục vụ bình quân 4.953 người/điểm.
* Viễn thông
Tính đến hết năm 2019, trên địa bàn tỉnh có 100% sở, ban, ngành và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố có trang thông tin điện tử và đã liên kết vào Cổng thông tin điện tử của tỉnh; 100% các đơn vị cấp tỉnh, cấp huyện đã có kết nối mạng nội bộ (mạng LAN); trong đó mỗi đơn vị được trang bị từ 1-2 máy chủ (sever). Tỷ lệ cán bộ, công chức trong các cơ quan chính quyền cấp tỉnh có sử dụng máy tính, Internet cho công việc là: 100%, cấp huyện: 100%, cấp xã: 95,7%.
Hiện nay, mạng truyền số liệu chuyên dùng đã được triển khai đến 30/30 sở, ban, ngành, và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, Hệ thống quản lý văn bản và điều hành tỉnh Kon Tum (VNPT-IOffice) đã được triển khai kết nối liên thông gửi/nhận văn bản điện tử giữa 30/30 đơn vị, địa phương; đồng thời kết nối liên thông với Trục liên thông văn bản quốc gia và tổ chức liên thông 04 cấp từ cấp xã - huyện - tỉnh - Trung ương. Ngoài ra, đối với các sở, ban, ngành cấp tỉnh được trang bị Hệ thống một cửa điện tử (VNPT-IGate) để kết nối với Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh.
Toàn tỉnh có khoảng 2.820,6 km cáp, trong đó có khoảng 2.722,3 km cáp treo (chiếm tỷ lệ 96,5%), 98,3km cáp ngầm (chiếm tỷ lệ 4,5%). Hạ tầng mạng ngoại vi được ngầm hóa chủ yếu tại các tuyến trong khu vực thành phố Kon Tum và trung tâm một số huyện. Hiện nay, 100% xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh có dịch vụ điện thoại cố định; có 04 mạng điện thoại di động với tổng số 737 trạm thu phát sóng di động; trong đó: công nghệ 2G đã có hiện trạng hạ tầng mạng phát triển tương đối hoàn thiện, đảm bảo phủ sóng đến mọi khu vực dân cư; công nghệ 3G có khoảng 566 trạm thu phát sóng (chiếm 76,8% tổng số trạm); công nghệ 4G: có 311 trạm thu phát sóng 4G (chiếm 42,2% tổng số trạm). Các doanh nghiệp như VNPT Kon Tum, Viettel Kon Tum, Mobifone Kon Tum đã có đường cáp quang liên tỉnh chạy qua địa bàn tỉnh Kon Tum (chạy dọc theo đường Hồ Chí Minh, Quốc lộ 24) với 10 mạng truyền dẫn liên tỉnh từ Kon Tum đi các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Gia Lai.
Toàn tỉnh hiện có 01 Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, 10 Đài Truyền thanh - Truyền hình cấp huyện và 91 Đài Truyền thanh cơ sở xã, phường, thị trấn; diện tích phủ sóng đạt khoảng trên 90% diện tích khu dân cư; 100% địa bàn tỉnh đều có thể thu tốt sóng kênh truyền hình tỉnh Kon Tum (KRT) qua vệ tinh Vinasat1.
6. Hạ tầng thương mại:
Hệ thống siêu thị, chợ, trung tâm thương mại phát triển, phân bố khá hợp lý, phát huy hiệu quả; đáp ứng đầy đủ nhu cầu hàng hóa thiết yếu cho người dân trên toàn tỉnh. Hiện tỉnh Kon Tum có 28 chợ (04 chợ hạng 2; 24 chợ hạng 3); 02 siêu thị (01 siêu thị hạng 1; 01 siêu thị hạng 3) và 01 trung tâm thương mại (hạng 3). Số lượng chợ, siêu thị, trung tâm thương mại không thay đổi nhiều qua các năm; so với năm 2016, năm 2019 chỉ tăng 02 chợ hạng 3, 01 siêu thị hạng 1 và 01 trung tâm thương mại. Việc thành lập và đưa Siêu thị Co.opmart Kon Tum và Tổ hợp Trung tâm thương mại - Shophouse Vincom Kon Tum đi trong hoạt động đã thúc đẩy thương mại, kích cầu mua sắm, tiêu dùng của người dân và góp phần chỉnh trang đô thị trên địa bàn thành phố Kon Tum.
7. Hệ thống khách sạn:
Hiện toàn tỉnh có 144 cơ sở lưu trú du lịch (CSLTDL), tăng 18 cơ sở so với năm 2016, với hơn 2.100 phòng; trong đó có 02 khách sạn đạt hạng tiêu chuẩn 3 sao, 09 khách sạn đạt hạng tiêu chuẩn 2 sao, 55 khách sạn đạt hạng tiêu chuẩn 1 sao và 78 nhà nghỉ du lịch; có 9 công ty hoạt động kinh doanh lữ hành trên địa bàn tỉnh (trong đó 03 công ty lữ hành quốc tế, 06 công ty lữ hành nội địa). Giai đoạn 2016 - 2019, nhiều dự án, công trình về thu hút du lịch được đầu tư như dự án Đầu tư hạ tầng Khu du lịch văn hóa, lịch sử ngục Kon Tum; Dự án Tôn tạo, phục dựng di tích lịch sử Ngục Kon Tum; Trưng bày bảo tàng ngoài trời; cùng với hạ tầng giao thông, hạ tầng kỹ thuật để phát triển du lịch tại khu kinh tế cửa khẩu Quốc tế Bờ Y, huyện Ngọc Hồi([1]) và tại các vùng kinh tế động lực([2]).
([1]) Đã bố trí 25.117 triệu đồng để thực hiện đầu tư, trong đó đầu tư kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển du lịch tại Khu kinh tế cửa khẩu Quốc tế Bờ Y, huyện Ngọc Hồi (đầu tư 06 dự án giao thông với kinh phí đã bố trí là 17.599 triệu đồng; đầu tư 01 dự án hệ thống điện chiếu sáng khu kinh tế cửa khẩu với kinh phí đã bố trí 339 triệu đồng; dự án Nhà trưng bày, giới thiệu cột mốc biên giới 03 nước Việt Nam - Lào - Campuchia với kinh phí đã bố trí 650 triệu đồng; dự án khai thác quỹ đất phát triển hạ tầng Khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Bờ Y giai đoạn I là 7.180 triệu đồng).
([2] Đã bố trí 85.000 triệu đồng, trong đó: huyện Ngọc Hồi 15.000 triệu đồng, huyện Kon Plông 15.000 triệu đồng, thành phố Kon Tum 55.000 triệu đồng; UBND thành phố Kon Tum: 11 công trình về hạ tầng giao thông với tổng mức đầu tư 76.788 triệu đồng (trong năm 2018 và các dự án chuyển tiếp từ năm 2017). Đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật công trình Công viên khu vực đường Trương Quang Trọng ( trên cơ sở đồ án Quy hoạch chi tiết Khu du lịch văn hóa, lịch sử ngục Kon Tum được Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 1500/QĐ-UBND ngày 07 tháng 12 năm 2016) nhằm phục vụ phát triển Khu du lịch văn hóa lịch sử Ngục Kon Tum.
Khách sạn Indochine - TP Kon Tum
Khách sạn BMC - Ngọc Hồi, Kon Tum
Khách sạn Đồi Thông - Măng Đen, Kon Tum