Đầu tư công đóng một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế kinh tế xã hội giúp cải thiện kết cấu hạ tầng, thu hút đầu tư
13-12-2021
Đầu tư công đóng một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế kinh tế xã hội giúp cải thiện kết cấu hạ tầng, thu hút đầu tư
CT

     Đầu tư công đóng một vai trò quan cực kỳ trọng với tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia. Đầu tư công được tập trung chủ yếu vào xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội giúp cải thiện kết cấu hạ tầng, thu hút đầu tư tư nhân trong nước và nước ngoài, tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

     Năm 2021, Đảng, Nhà nước đã quan tâm chỉ đạo sát sao; Quốc hội luôn đồng hành cùng Chính phủ trong tháo gỡ các khó khăn về thể chế tạo điều kiện cho thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công. Ngay từ đầu năm, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2021, trong đó đã xác định rõ nhiệm vụ, giải pháp về giải ngân vốn đầu tư công. Phiên họp đầu tiên của Chính phủ đã xác định đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2021 là một trong những trọng tâm trong chỉ đạo, điều hành, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo nhằm đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công như: Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 19/6/2021, Công điện số 1082/CĐ-TTg ngày 16/8/2021, Thông báo số 262/TB-VPCP ngày 5/10/2021, đặc biệt ngày 22/11/2021 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1962/QĐ-TTg về việc thành lập Tổ công tác kiểm tra, đôn đốc tháo gỡ khó khăn vướng mắc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2021 tại một số bộ, cơ quan cơ quan trung ương và địa phương và nhiều Nghị quyết phiên họp thường kỳ của Chính phủ, văn bản chỉ đạo của Lãnh đạo Chính phủ. Thông qua việc lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành quyết liệt thống nhất, xuyên suốt, kịp thời cùng với sự nỗ lực, đồng thuận của các cấp, các ngành và các địa phương, việc thực hiện và giải ngân kế hoạch năm 2021 đã đạt được một số kết quả quan trọng. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giải ngân vốn đầu tư công  tính đến ngày 30/11 tại 6 địa phương (Thành phố Đà Nằng, Quảng Nam, Đắk Lắk, Kon Tum, Gia Lai, Bình Định) đạt 18.288,728 tỷ đồng, đạt 67,74% so với kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao từ đầu năm và cao hơn bình quân cả nước (63,86%), trong đó:

     (1) Thành phố Đà Nẵng giải ngân đạt 74,4% kế hoạch vốn Thủ tướng Chính phủ giao, trong đó nguồn vốn NSĐP đạt cao 83,9% kế hoạch, vốn NSTW trong nước giải ngân đạt 51,38% kế hoạch những nguồn vốn ODA giải ngân thấp chỉ đạt 40,70% kế hoạch.

     (2) Tỉnh Quảng Nam giải ngân đạt 72,84% kế hoạch vốn Thủ tướng Chính phủ giao, trong đó nguồn vốn NSĐP đạt cao 87,68% kế hoạch, vốn NSTW trong nước giải ngân đạt 51,07% kế hoạch nhưng nguồn vốn ODA giải ngân thấp chỉ đạt 15,61% kế hoạch.

     (3) Tỉnh Đắk Lắk giải ngân đạt 68,56% kế hoạch vốn Thủ tướng Chính phủ giao, trong đó nguồn vốn NSĐP đạt cao 85,74% kế hoạch, nguồn vốn NSTW trong nước giải ngân đạt 58,26% kế hoạch và nguồn vốn ODA giải ngân thấp, chỉ đạt 23,83% kế hoạch.

    (4) Tỉnh Kon Tum giải ngân đạt 66,03% kế hoạch vốn Thủ tướng Chính phủ giao, trong đó nguồn vốn NSĐP đạt 66,14% kế hoạch, nguồn vốn NSTW trong nước giải ngân cao, dự kiến đạt 95,92% kế hoạch và nguồn vốn ODA chưa giải ngân.

     (5) Tỉnh Gia Lai giải ngân đạt 62,79% kế hoạch vốn Thủ tướng Chính phủ giao, trong đó nguồn vốn NSĐP đạt 66,40% kế hoạch, nguồn vốn NSTW trong nước giải ngân đạt 60,30% kế hoạch và nguồn vốn ODA giải ngân đạt 39,56% kế hoạch.

    (6) Tỉnh Bình Định giải ngân đạt 60,12% kế hoạch vốn Thủ tướng Chính phủ giao, trong đó nguồn vốn NSĐP đạt 57,31% kế hoạch, nguồn vốn NSTW trong nước giải ngân đạt cao 74,99% kế hoạch nhưng nguồn vốn ODA giải ngân chỉ đạt 39,72% kế hoạch.

      Một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện giải ngân vốn đầu tư công.

     Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong thời gian qua, việc thực hiện giải ngân vốn đầu tư công có một số khó khăn vướng mắc như: Các khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách; Khó khăn do nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, cụ thể:

     Về cơ chế chính sách: (1) Về quy trình và thủ tục quản lý và sử dụng ODA: Điều 23, 25, 34 Luật Đầu tư công năm 2019, Nghị định số 56/2020/NĐ-CP ngày 25/5/2020 của Chính phủ còn phức tạp, khó khăn thực hiện trong thực tế... làm ảnh hưởng đến quá trình điều chỉnh chủ trương, điều chỉnh dự án, ký kết Hiệp định. (2) Từ năm 2020, việc lập dự toán xây dựng dự án phải thực hiện theo các Thông tư số 10, 11, 15, 16/2019/TT-BXD của Bộ Xây dựng, nhất là Thông tư số 10/2014/TT-BXD đã làm kéo dài thời gian triển khai thực hiện, ảnh hưởng tiến độ khởi công và giải ngân kế hoạch vốn đã được giao. (3) Chính phủ đã ban hành Nghị định 15/2001/NĐ-CP ngày 03/3/2021 quy định chi tiết một số nội dung về quản lý dự án đầu tư xây dựng để thay thế Nghị định số 59/2015/NĐ-CP ngày 18/6/2015, tuy nhiên Thông tư hướng dẫn triển khai cụ thể các nội dung của Nghị định 15/2021/NĐ-CP vẫn chưa được ban hành. (4) Trong năm 2021, hàng loạt các chính sách pháp luật mới của nhà nước đã được sửa đổi, bổ sung như Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng (Luật số 62/2020/QH14), Nghị định số 06/2021/NĐ-CP, Nghị định số 10/2001/NĐ-CP, Nghị định số 15/2021/NĐ-CP... Theo các quy định sửa đổi, bổ sung thẩm quyền thẩm định, phê duyệt hồ sơ thiết kế điều chỉnh và một số thủ tục khác đã thay đổi, gây khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện ở địa phương làm ảnh hưởng đến tiến độ duyệt hồ sơ, tiến độ thi công và tiến độ giải ngân của các dự án. (5) Thời gian điều chỉnh kế hoạch hằng năm quy định thực hiện trước ngày 15/11 năm kế hoạch, tuy nhiên tại địa phương có nhiều dự án điều chỉnh phải thông qua Hội đồng nhân dân tại kỳ họp cuối năm (họp sau ngày 15/11), do đó khó khăn trong việc điều chỉnh kế hoạch để tăng tỷ lệ giải ngân. (6) Các dự án chuyển tiếp gặp vướng mắc về công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, công tác quản lý hiện trạng, thỏa thuận áp giá đền bù, xác nhận nguồn gốc sử dụng đất. Các dự án khởi công mới năm 2021 đã được phân bổ kế hoạch vốn triển khai thực hiện và chuẩn bị đầu tư ngay từ đầu năm, tuy nhiên, đến 30/9/2021, một số dự án vẫn chưa hoàn thành các thủ tục đầu tư nên đã bị cắt giảm kế hoạch vốn năm 20216. (7) Quy định về chi phí mới được ban hành đã có hiệu lực ngay (Thông tư số 11/2021/TT-BXD của Bộ Xây dựng có hiệu lực từ 15/10/2021) nên phải điều chỉnh lại dự toán và kế hoạch lựa chọn nhà thầu, làm ảnh hưởng tiến độ thực hiện dự án.

     Về khó khăn do nguyên nhân khách quan: (1) Diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19 tác động lớn đến các hoạt động của dự án (công tác quản lý chi phí đầu tư xây dựng, hợp đồng xây dựng, huy động nhân công, tiến độ thi công các dự án), nhất là dự án sử dụng vốn ODA và vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài khi mà toàn bộ quá trình hoạt động của dự án chủ yếu liên quan đến yếu tố nước ngoài. Bên cạnh đó, việc thực hiện giãn cách tại một số địa phương làm cho việc lưu thông hàng hóa, nhất là nguyên nhiên vật liệu khó khăn, giá nguyên nhiên vật liệu tăng cao, nguồn lao động bị hạn chế do nhiều công nhân nghỉ việc, phát sinh thêm các chi phí phòng chống dịch... ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ thi công xây dựng công trình. (2) Về thiếu hụt nhân lực; không thể huy động số lượng cán bộ kỹ thuật, công nhân có tay nghề và người lao động ở mức độ tối thiểu để đảm bảo khả năng thi công liên tục đáp ứng tiến độ thực hiện dự án. Các công nhân, chuyên gia, tư vấn của các nhà thầu nhất là các dự án ODA cũng phải thực hiện chính sách giãn cách của địa phương tương ứng với tình hình dịch bệnh. Do ảnh hưởng bởi dịch Covid19 nên việc các chuyên gia sang Việt Nam bị ảnh hưởng, các gói thầu nhập khẩu máy móc, trang thiết bị, nguyên vật liệu cũng bị chậm tiến độ. (3) Về giá nguyên vật liệu tăng cao đột biến: nguồn cung ứng nguyên vật liệu, vật tư, thiết bị không thể đáp ứng liên tục đầy đủ do khan hiếm nguồn cung cấp từ các nguồn sản xuất nguyên liệu. (4) Về vướng bồi thường, GPMB: Do không thể tổ chức tập trung người dân cũng ảnh hưởng đến công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để bàn giao mặt bằng thi công. (5) Về thời điểm giao vốn: Các dự án khởi công mới trong năm 2021 được giao chi tiết sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định về Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 (ngày 15/9/2021) nên các địa phương không có nhiều thời gian để triển khai thực hiện các dự án khởi công mới. (6) Đặc thù khí hậu vùng Tây nguyên mùa mưa kéo dài (bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 10), hầu hết dự án xây dựng sau khi lập xong hồ sơ và bắt đầu khởi công vào mùa mưa, tiến độ thi công chậm.

     Về nguyên nhân chủ quan như công tác bồi thường, GPMB: Các khó khăn về thủ tục, công tác giải phóng mặt bằng; quy trình triển khai dự án phải phối hợp nhiều cơ quan, đơn vị, qua nhiều bước... đây là khó khăn chung của cả nước do các quy định hiện hành, cụ thể như: (1) Quy trình, thủ tục đầu tư phải qua nhiều khâu, nhiều bước, lấy ý kiến của nhiều cơ quan, đơn vị làm kéo dài thời gian hoàn thành thủ tục đầu tư như: quy hoạch; phê duyệt chủ trương đầu tư, phê duyệt dự án đầu tư, thiết kế bản vẽ thi công - dự toán, lựa chọn nhà thầu,... Trong từng bước phải lập, đấu thầu lựa chọn tư vấn, thẩm tra, thẩm định và trình phê duyệt; (2) Các công trình có quy mô đầu tư lớn, sở, ngành và các Ban quản lý dự án không lường hết các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai lập dự án, nên phải điều chỉnh, bổ sung dự án cho phù hợp với thực tế và năng lực của một số đơn vị tư vấn thiết kế và nhà thầu thi công vẫn còn hạn chế; (3) Lựa chọn đơn vị tư vấn thẩm định giá không đủ năng lực cũng làm ảnh hưởng đến tiến độ thẩm định phê duyệt phương án giá bồi thường …

     Thời gian còn lại trong năm 2021 để hoàn thành việc giải ngân vốn đầu tư công không còn nhiều, chính vì vậy đòi hỏi các địa phương phải nổ lực hơn nữa trong thực hiện các giải pháp, trong đó phải thực hiện tốt các giải pháp Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra như: (1) Triển khai thực hiện nghiêm túc các Nghị quyết của Chính phủ: số 01/NQ-CP ngày 01 tháng 01 năm 2021, số 45/NQ-CP ngày 05 tháng 4 năm 2021, số 63/NQ-CP ngày 29 tháng 6 năm 2021; các Nghị quyết Phiên họp Chính phủ thường kỳ; Công điện số 1082/CĐ-TTg ngày 16 tháng 8 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ và các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2021. (2) Nâng cao chất lượng công tác chuẩn bị đầu tư đặc biệt là đơn vị tư vấn và tổ chức thực hiện dự án, hạn chế tình trạng điều chỉnh trong quá trình triển khai, bảo đảm hiệu quả kiểm soát chặt chẽ phạm vi, quy mô, tổng mức đầu tư của từng dự án đầu tư theo đúng mục tiêu, lĩnh vực và quy định của pháp luật, gắn trách nhiệm của tổ chức cá nhân. (3) Điều chuyển vốn các công trình không triển khai được hoặc chậm triển khai, không có khả năng giải ngân hết kế hoạch vốn đã bố trí sang các công trình đã có Quyết định phê duyệt quyết toán, có khối lượng hoàn thành, các công trình trọng điểm, động lực và các công trình cần đẩy nhanh tiến độ, có khả năng giải ngân.  Thường xuyên rà soát, kịp thời có văn bản báo cáo các Bộ, ngành Trung ương để xử lý những khó khăn, vướng mắc trong công tác giải ngân kế hoạch vốn hàng năm nhằm đẩy nhanh tiến độ và hoàn thành kế hoạch năm 2022. (5) Kiến nghị, xử lý các điểm nghẽn” trong thủ tục đầu tư, xây dựng cơ bản, công tác giải phóng mặt bằng, triển khai dự án, nhất là các công trình trọng điểm, động lực trên các lĩnh vực giao thông, hạ tầng khu công nghệ cao, khu công nghiệp, cấp thoát nước, môi trường, an sinh xã hội..., kiến nghị Trung ương sớm thống nhất chủ trương tách hạng mục giải phóng mặt bằng ra khỏi dự án đầu tư. (6) Tăng cường trách nhiệm thực hiện và xử lý vi phạm đối với công tác hoàn ứng, thanh toán, quyết toán dự án hoàn thành. Đẩy mạnh chế độ thông tin, báo cáo về tình hình thực hiện, giải ngân vốn đầu tư công năm 2021. Gắn tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công năm 2021 với đánh giá cuối năm về vai trò của người đứng đầu, các cá nhân có liên quan và công tác thi đua khen thưởng tập thể, cá nhân. (7) Đề cao kỷ luật, kỷ cương, tăng cường kiểm tra, giám sát; xử lý nghiêm các chủ đầu tư, ban quản lý dự án, nhà thầu cố tình gây khó khăn, cản trở làm chậm tiến độ giao vốn, giải ngân vốn; kiểm điểm, xử lý kịp thời các cán bộ yếu kém, tiêu cực, không hoàn thành nhiệm vụ được giao.

 

Khắc Quang - ipckontum  
Số lượt xem:666